Bảng phân tích (Phụ khoa)

Bảng phân tích (Phụ khoa)

1. Hormone nữ:

Hormone nữ được sản xuất chủ yếu bởi trứng và các hoàng thể. Nó kích thích cơ quan sinh dục, âm đạo, ống dẫn trứng và tử cung của các cô gái vị thành niên phát triển và trưởng thành, kích thích sự xuất hiện các đặc điểm sinh dục thứ phát của nữ, ảnh hưởng đến sự trao đổi chất, và có vai trò thúc đẩy phát triển và tăng trưởng của thanh thiếu niên.

2. Gonadotropin:

Vai trò của gonadotropin là chủ yếu để thúc đẩy sự trưởng thành của cơ quan sinh sản, chẳng hạn như buồng trứng. Nếu số lượng gonadotropin tiết không đủ, nó có thể dẫn đến chứng loạn sản cơ quan sinh dục và chậm phát triển giới tính. Các gonadotropin được chia thành hormone hoàng thể hóa (luteinizing hormone) và hormone kích thích nang trứng. Trước tuổi dậy thì, nồng độ của các hormone là rất thấp. Khi bắt đầu tuổi dậy thì, nồng độ được tăng lên để thúc đẩy sự trưởng thành giới tính. Do đó, nó có một vai trò quan trọng trong phát triển giới tính. Vai trò chính của các hormone kích thích nang trứng là để thúc đẩy buồng trứng để sản xuất trứng, và vai trò của hormone hoàng thể hóa là thúc đẩy sự rụng trứng và sản xuất estrogen và progesterone. Chúng điều hòa chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ. Trước tuổi dậy thì, lượng gonadotropin tiết là ít và không có sự khác biệt giữa ngày và đêm. Sau khi bắt đầu tuổi dậy thì, lượng tiết được tăng lên đáng kể trong khi ngủ. Trong những năm giữa tuổi dậy thì, rất nhiều gonadotropin được tiết ra trong khi ngủ và thức. Sau tuổi dậy thì, nồng độ gonadotropin được tăng lên rất nhiều và gần như bằng với mức người lớn.

3. Prolactin:

Nồng độ prolactin trong máu cũng liên quan chặt chẽ đến hành vi tình dục. Chúng ta biết rằng các gonadotropin được tiết ra từ tuyến yên nữ có thể điều chỉnh mức độ tiết estrogen và Lutin của buồng trứng và đóng một vai trò quyết định trong hoạt động tình dục của phụ nữ. Prolactin có thể gởi thông tin phản hồi (feedback) đến vùng dưới đồi để giảm tiết estrogen gây khô âm đạo và giao hợp khó khăn và làm trầm trọng thêm tình trạng đau hoặc khó chịu khi quan hệ tình dục ở nữ giới, và do đó dần dần tạo nỗi sợ hãi ở người phụ nữ về đời sống tình dục và dẫn đến giảm ham muốn tình dục. Ví dụ, trước và sau kỳ kinh nguyệt, ham muốn tình dục của phụ nữ là tương đối giảm do sự suy giảm của nồng độ hormone giới tính. Trong một ví dụ khác, ở những người phụ nữ bắt đầu già, do sự co rút dần của buồng trứng, mức độ hormone sinh dục bị giảm đáng kể, do đó gây nên sự thờ ơ đối với ham muốn tình dục. Sau khi những người phụ nữ này được bổ sung hormone giới tính, các nhu cầu tình dục có thể được phục hồi. Điều này chứng minh rằng kích thích tố tình dục liên quan chặt chẽ đến ham muốn tình dục. Trên lâm sàng, một số phụ nữ vô sinh có những vấn đề ức chế ham muốn tình dục hoặc thờ ơ đối với ham muốn tình dục do quan hệ tình dục khó khăn do khô âm đạo. Việc kiểm tra cũng phát hiện ra rằng nồng độ prolactin trong máu của những phụ nữ vô sinh tăng. Prolactin có thể gởi thông tin phản hồi (feedback) đến vùng dưới đồi để giảm tiết estrogen gây khô âm đạo và giao hợp khó khăn và làm trầm trọng thêm tình trạng đau hoặc khó chịu khi quan hệ tình dục ở nữ giới, và do đó dần dần tạo nỗi sợ hãi ở người phụ nữ về đời sống tình dục và dẫn đến giảm ham muốn tình dục. Do đó, nồng độ prolactin trong máu cũng liên quan chặt chẽ đến hành vi tình dục.

4. Progesterone:

Lutin được sản xuất bởi các hoàng thể trong buồng trứng, vì vậy nó còn được gọi là progesterone. Các Lutin được tiết ra từ nhau thai sau khi mang thai. Lutin thường đóng một phần vai trò của estrogen, và giúp đỡ cho việc làm tổ các trứng đã thụ tinh trong tử cung và đảm bảo mang thai. Ví dụ, Lutin làm cho nội mạc tử cung từ giai đoạn tăng trưởng chuyển sang một giai đoạn tiết để tạo thuận lợi cho phôi làm tổ và làm cho tử cung không dễ dàng bị kích thích, do đó đảm bảo rằng các phôi thai có môi trường 'êm dịu'. Trên cơ sở vai trò của estrogen, Lutin thúc đẩy phát triển quá trình chứa sữa (galactophore) và chuẩn bị các điều kiện để cho con bú sau khi mang thai. Lutin cũng có chức năng sưởi ấm để tăng nhiệt độ cơ thể cơ bản lên 1 độ hoặc bằng sau khi rụng trứng. Nhiệt độ cơ thể được giảm thoáng qua trước khi rụng trứng và tăng lên sau khi rụng trứng, vì vậy sự thay đổi của nhiệt độ cơ thể cơ bản được sử dụng như một trong những biểu tượng xác định ngày rụng trứng trên lâm sàng; Lutin có thể làm cho cơ tử cung người phụ nữ thư giãn và giảm hoạt động có lợi cho sự tăng trưởng và phát triển của trứng đã thụ tinh trong khoang tử cung; Lutin thúc đẩy chuyển đổi nội mạc tử cung giai đoạn tăng sinh thành giai đoạn tiết màng trong mạch để chuẩn bị cho trứng thụ tinh làm tổ; Lutin thúc đẩy sự phát triển tuyến nang vú (mammary acinar) và ức chế sự rụng trứng, vì vậy phụ nữ trong khi mang thai không rụng trứng và không có kinh nguyệt.

5. Viêm âm đạo:

Viêm âm đạo là một loại viêm niêm mạc âm đạo và mô liên kết dưới niêm mạc, là một căn bệnh phổ biến của Khoa Bệnh nhân phụ khoa ngoại trú. Âm đạo của phụ nữ khỏe mạnh bình thường có chức năng bảo vệ tự nhiên khi tác nhân gây bệnh xâm nhập, như một kết quả của các đặc điểm giải phẫu và sinh hóa của âm đạo. Khi chức năng phòng vệ tự nhiên của âm đạo bị phá vỡ, tác nhân gây bệnh xâm nhập dễ dàng, dẫn đến viêm âm đạo. Phụ nữ trẻ và phụ nữ sau mãn kinh dễ bị nhiễm trùng hơn so với phụ nữ ở thời kỳ dậy thì và sinh sản do họ thiếu estrogen, lớp tế bào biểu mô của âm đạo là rất mỏng, glycogen nội bào giảm, giá trị pH âm đạo là khoảng 7, sự đề kháng của âm đạo là yếu.

6. Viêm vùng chậu:

Các bệnh viêm vùng chậu là đề cập đến khu vực xung quanh cơ quan sinh sản nữ và nhiễm trùng cơ quan sinh dục ngoài khoang phúc mạc có thể gây nhiễm trùng ngược, đến với khoang chậu qua ống dẫn trứng. Hệ thống sinh sản nữ có chức năng bảo vệ tự nhiên, trong điều kiện bình thường, có thể chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn. Khi các nguyên nhân khác gây phá hủy chức năng bảo vệ tự sẽ gây ra sự kết dính vết sẹo cũng như tình trạng viêm nhiễm sung huyết khoang chậu gây nên hiện tượng viêm mãn gây ra đau phồng bụng dưới, thường bị làm nặng thêm khi quan hệ tình dục lúc đang có kinh nguyệt.

7. Viêm phần phụ:

Trong cơ quan sinh sản nữ, ống dẫn trứng được gọi là phần phụ tử cung và viêm phần phụ là viêm buồng trứng và ống dẫn trứng nhưng vì ṿi trứng và buồng trứng là hai tổ chức nằm sát nhau tạo nên viêm phúc mạc tổ chức khoang chậu và không dễ dàng chẩn đoán phân biệt. tình trạng viêm phúc mạc khoang chậu có thể bao gồm viêm phần phụ trong viêm các cơ quan trong khung chậu, thường gặp nhất là viêm ṿi trứng, vì lý do tương quan về giải phẫu, thường là viêm ṿi trứng, viêm buồng trứng và viêm phúc mạc chậu đồng thời cùng tồn tại, và ảnh hưởng lẫn nhau.

8. Viêm cổ tử cung:

Viêm cổ tử cung là căn bệnh phổ biến của người phụ nữ của tuổi sinh đẻ, có hai loại cấp tính và mãn tính. Viêm cổ tử cung cấp tính thường cũng tồn tại với viêm màng trong tử cung cấp tính hoặc viêm âm đạo cấp tính, còn viêm cổ tử cung mãn tính tăng khi đi kèm khí hư (leucorrhea), giả dính các chất nhầy dày hoặc chất nhầy mủ, đôi khi có thể kèm theo các mao mạch hoặc có sự kích thích một cách cơ học mãn tính lâu dài các mao mạch là nguyên nhân chính gây ra viêm cổ tử cung.

9. U nang buồng trứng:

Các u nang buồng trứng là một loại khối u buồng trứng, mọi lứa tuổi đều có thể bị, nhưng hầu hết các u nang buồng trứng thấy ở phụ nữ 20-50 tuổi. U nang buồng trứng kèm đau bụng dưới và khí hư vàng hoặc mùi kinh nguyệt bất thường là không bình thường trên lâm sàng, hơn nữa nếu ở bụng dưới có một khối rắn, nhưng đôi khi các khối u này là không đau, đau khi quan hệ tình dục, u nang ảnh hưởng đến việc sản xuất nội tiết tố, có thể sẽ có xuất huyết âm đạo bất thường và các triệu chứng khác.

Viết bình luận